Chùm thơ của thương binh

BVD- Nhân dịp Kỷ niệm 70 năm Ngày TBLS 27.07, chúng tôi  trân trọng gửi đến Quý bạn đọc chùm thơ của Nhà thơ, Nhà báo, người chiến sĩ  năm xưa Nguyễn Huy Thắng – Bút danh Huy Thắng. 

Bài 1.

CHIẾC ÁO MÀU XANH

( Kính tặng hương hồn Liệt sĩ Trương Thanh Lâm và Trịnh Mệnh )

 

Anh ngã xuống tuổi mới đôi mươi

Chưa vợ con, không mảnh tình thương nhớ

Anh vội trao tôi áo anh mặc dở

Áo màu xanh vài vết đạn xuyên

 

Tôi mặc áo của anh những năm tháng không quên

Chiếc áo mang tên ba người đồng chí:

Trương Thanh Lâm,

Trịnh Mệnh,

Nguyễn Huy Thắng.

Tôi may mắn còn được về quê mẹ

Mang chiếc áo theo cả những vết thương đau

 

Hòa bình đã lâu và mãi mãi mai sau

Tôi không thể nào quên vết thương trên áo,

Mỗi vết đạn xuyên một lần đổ máu

Mà đồng đội của tôi vĩnh viễn năm lại ở chiến trường !

Nhà thơ, Nhà báo Huy Thắng năm 1972 tại chiến trường Quảng Ngãi

 

 ( Nguyễn Huy Thắng, C2-D107, Chiến trường xưa, Quảng Ngãi, năm 2000 ) 

Bài 2. 

TRỞ LẠI CHIẾN TRƯỜNG XƯA TÌM ĐỒNG ĐỘI

Tôi trở lại nơi chiến trường xưa

Gặp được người anh dưới tán dừa

Anh ngoài bảy mươi gầy khô đét

Da màu khói đạn nhuộm nắng mưa

 

Anh dẫn tôi đi tìm đồng đội

Nằm ở Phương Trung giữa vạt đồi

Tôi hét lên : Đây rồi, đây rồi !

Anh Trịnh Mệnh ơi ! Anh Mệnh ơi !

 

Tôi gọi tên anh đến nghẹn lời

Trời cao đất rộng có thương tôi

Hãy chỉ cho tôi nơi anh nghỉ

Để tôi đến đó với anh tôi !

 

Năm tháng đá mòn san mất nấm

Cỏ đã mọc xanh nơi anh nằm

Tôi cắm nén hương trên nấm cũ

Gọi hồn anh về cùng với chúng tôi !

 

Tôi lại đi tìm người chị người anh

Những người còn sống sót trong chiến tranh

Hy vọng có ai hay biết được

Nơi anh nằm ở cùng đồng đội trong nghĩa trang – Vô Danh

Trung tá Phạm Trinh , tỉnh đội phó Quảng Ngãi trong thời kỳ chống Mỹ người dẫn CCB Nguyễn Huy Thắng đi tìm đồng đội

  Huy Thắng , Nghĩa trang xã Tịnh Hiệp, 13.04.2000

 

Bài 3. 

ANH THƯƠNG BINH ĐI TÌM NGƯỜI YÊU 

Chiến sĩ , nhà thơ, nhà báo Huy Thắng, năm 1972

ANH THƯƠNG BINH ĐI TÌM NGƯỜI YÊU 

 

Đến Trường Sư phạm tìm người yêu

Nắng núp sau cây bóng ngả chiều

Từng tốp sinh viên, xinh tươi quá

Ngẫm mình chẳng dám hỏi người qua

 

Chống nạng ra Trường tối đến rồi

Đường về Quan Thánh chỗ cô tôi

Còn xa, xe Buýt người chật ních

Mà khớp gối chân lại tấy sưng rồi

 

Tôi cố chen lên kiếm chỗ ngồi

Một cô sinh nữ  nhường cho tôi:

„ Cảm ơn cô, tôi còn đứng được,

Chẳng dám phiền cô, cô cứ ngồi !“

 

Về Trại Thương binh ở Bến Hàn,

Đồng đội quây quần đến hỏi han

Rằng tôi đã gặp người yêu chứ ?

Cô ấy xinh không, có đẹp không ?

 

Tôi trả lời mà nghẹn trong lòng,

Ở trường Sư phạm rất là đông

Toàn nữ sinh viên xinh xinh cả

Còn người tôi yêu chắc đã có chồng

 

Buồn quá, tôi về quê Đá Chông

Tình cờ  gặp lại em bên sông

Vẫn nụ cười duyên nghiêng nghiêng nón

Đón em vào thăm qua cách đồng.

 

Thế là em chưa đi lấy chồng

Em còn bận học, học chưa xong

Thế là tôi vẫn còn hy vọng

Người xưa, nghĩa cũ vẫn nhớ mong !

 

Trở lại trường em, tôi đứng chờ

Giờ em tan học đã quá trưa

Em lại bên tôi vồn vã hỏi

Anh đợi lâu chưa, anh đói chưa ?

 

Bạn bè lớp em cứ chọc tôi:

Rằng anh thương binh đã yêu ai ?

Để em giới thiệu ! Em giới thiệu

Tôi liếc nhìn em – nhừ đỏ mặt,… cười !

 

Huy Thắng, tháng 7 năm 1975

Bài 4. 

CÔ GÁI NGÀY XƯA 1

 

Ơi em cố gái ngày xưa

Cô gái ôm tôi dưới tán dừa,

Cô gái hôn tôi trong nước mắt,

Nước mắt cô dịu đau vết thương tôi

 

Ôi anh !

Em tưởng anh chết rồi !

Không ! Không ! Không !

Anh còn sống, anh còn sống !

 

Đêm xóm Tây còn chìm trong báo động

Pháo địch ngoài khơi đang dội xuống xóm làng

Em thản nhiên nổi lửa nướng khoai lang

Sợ tôi đói đich càn không đánh được

Em bắc ấm đun nhanh siêu nước

Trong ánh lửa bập bùng em thật là xinh

 

Ngày ấy chúng tôi chỉ có một niềm tin

Tất cả tâm tình dành cho phía trước

Tôi hỏi em những điều mơ ước

Em trả lời: Đánh giặc giữ làng trồng được lúa khoai

Tôi lại hỏi Em, Em đã yêu ai ?

Em trả lời, đánh Mỹ còn dài nghĩ chi cho mệt ?

Em của tôi đẹp người đẹp nết

Chăm chúng tôi như em gái tôi …

***

Chiến tranh qua đi 30 năm rồi

Tôi trở lại xóm Tây bồi hồi xúc động

Mía đầy đồng, khoai dưa kín luống

Lúa vừa gặt rơm thơm trên ruộng

Và hố pháo xưa nay dựng ngôi nhà em !

 

Ôi em ! Cô gái ngày xưa nay đã 50 mươi

Tôi ôm lấy cô mừng rơi nước mắt

Nước mắt tích lâu chờ ngày gặp mặt

Tôi không cầm lòng rung rung đôi vai

Em hãy nói đi, em sống với ai

Em hãy kể đi, ai còn ai mất

Em gục vào tôi áo thay khăn mặt …

 

Nước mắt tròn lăn bỏng trái tim tôi  !

 

Nhà báo Huy Thắng, Xóm Tây, năm 2005

 

Bài 5.  

LỜI CỦA CHA 

 

Cha điều trị nằm lâu trong bệnh viện

Giáo sư bảo là bệnh máu của cha!

Con ơi, cha có thể đi trước bà

Và như thế nghĩa là bất hiếu !

 

Cha ghi lại đây mấy điều để con hiểu

Nguyên nhân tại bởi chiến tranh.

Chiến tranh do Đế quốc Mỹ tiến hành

Có cả bom Na-Pan và chất độc  

Chất độc  DIOXIN – màu Da cam .

 

Đế quốc Mỹ đã dải xuống Miền Nam

Và tập trung ở Miền Trung – Trung Bộ

Khi ấy cha chiến đấu ở đó

Đã hứng chịu đủ mọi thứ này…

 

Nước sạch không còn, cha phải mút rễ cây

Và cây cũng bị rụng trơ hết lá

Đồng đội của cha đã bao người ngã xuống

Bởi đạn bom và chất độc Da cam !

 

Cha may mắn còn sống sót đến hôm nay

Và sinh ra các con cũng may không  nhiều dị tật.

Cha đã dấu mẹ và các con những điều rất thật

Rất anh hùng mà chẳng dám nói ra !

 

Bây giờ, có thể là lúc Cha sắp phải đi xa…

Cha mới nói ra những điều canh cánh

Đó là điều bất hạnh:

Chất độc Da cam – DIOXIN thấm vào người !

***

Trước  mẹ và các con cha vẫn cười

Nhưng trong người cha đang chết dần từng bộ phận…

 

Chiến tranh con ơi !

Chiến tranh con ơi !

Ngàn đời , ngàn đời căm giận !

Hãy nhớ !  hãy nhớ!

Đừng ! Đừng ! Đừng… bao giờ quên !

————

Huy Thắng, Bệnh viện huyết học  Karlsburg, CHLB Đức. 2001

 

 

Ban văn nghệ  Baovietduc.de

Related Posts