Luật hóa trừng phạt Nga đưa EU lệ thuộc hoàn toàn Mỹ
BVD – Việc luật hóa trừng phạt Nga đã chuyển EU từ phụ thuộc- bị ràng buộc, bị chi phối bởi Mỹ- sang lệ thuộc- mất tự chủ trong chính hành động của mình…ư\
Trừng phạt Nga được luật hóa khiến EU mất tự chủ hoàn toàn
Việc lệnh trừng phạt Nga được luật hóa tại Mỹ đã gây phản ứng dữ dội nhất không phải từ Nga, mà từ EU – đồng minh lâu đời của Mỹ bên bờ đông Đại Tây Dương. Bởi Washington được nhìn nhận là chỉ xem trọng mục đích của mình hơn là lợi ích của đồng minh, đối tác.
Điều đó đã được thể hiện rất rõ ràng qua phản ứng của Brussels. Ngay sau khi nghị sĩ hai đảng của Mỹ đạt thỏa thuận, tờ Bild am Sonntag của Đức đã dẫn lời người phát ngôn Ủy ban châu Âu (EC) cảnh báo Mỹ :
“Luật trừng phạt Nga có thể gây ra những hậu quả khôn lường, không chỉ với sự đoàn kết của khối G7, mà còn với an ninh năng lượng và lợi ích kinh tế của EU. Ảnh hưởng của biện pháp trừng phạt rất rộng, bao gồm cả nỗ lực đa dạng hóa nguồn năng lượng của EU”.
Theo Brussel thì việc mở rộng trừng phạt Nga lần này của Mỹ liên quan tới các vấn đề của riêng Washington – về cáo buộc Nga gây nhiễu loạn bầu cử Mỹ- chứ không phải vấn đề quốc tế như lệnh trừng phạt trước đây mà Mỹ và EU phối hợp với nhau để gây sức ép đối với Nga.
Giới chức tại Đức thể hiện sự phẫn nộ khi cho rằng dự luật tạo ra sức ép lên chính phủ Mỹ buộc phải ưu tiên xuất khẩu năng lượng Mỹ, tạo việc làm cho người Mỹ, đặt lợi ích Mỹ lên trên lợi ích của các đồng minh, theo Financial Times.
Dư luận đã đặt vấn đề: Châu Âu có mức phát triền như ngày nay, EU có thể ra đời và khẳng định vị thề như hiện nay là hoàn toàn nhờ vào lợi ích Mỹ, vậy việc đồng cam cộng khổ với người bảo trợ thì có gì đâu mà ầm ĩ?
Quả thật, Châu Âu điêu tàn sau Thế chiến II không thể “vươn mình đứng dậy sáng lòa” chỉ sau hơn một thập kỷ, nếu không có nguồn lợi ích khổng lồ từ đồng minh bên bờ tây Đại Tây Dương đổ vào lục địa già với Kế hoạch Marshall vĩ đại (1947 – 1951).
Có thể nhận định rằng, không có lợi ích Mỹ thì nguyên tắc liên hiệp tại Châu Âu không thể được hiện thực hóa dễ dàng như vậy. Bởi ngay sau khi Thế chiến I kết thúc, năm 1916 Ngoại trưởng Pháp lúc đó là ông Aristide Briand đã đề xuất ý tưởng thành lập một liên hiệp Châu Âu.
Tuy nhiên, ý tưởng vĩ đại của nhà chính trị kiệt xuất ấy đã không thể trở thành hiện thực trong thời đại của ông. Điều đó chứng tỏ việc liên hiệp tại Châu Âu phải có những điều kiện đặc biệt, tạo ra sự tương đồng trong nền tảng lợi ích và đó chính nguồn lực từ Kế hoạch Mashall.
Ngay sau khi Kế hoạch Marshall kết thúc, Hiệp ước Paris được ký kết cho ra đời Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC) vào năm 1951, rồi Hiệp ước Rome 1958 cho đời Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử châu Âu.
Năm 1967, với Hiệp ước hợp nhất đã cho ra đời Cộng đồng châu Âu (EC), để rồi đến năm vào năm 1991 với Hiệp ước Maastricht cho ra đời Liên minh châu Âu (EU) và dần mở rộng lên 28 quốc gia, đưa EU trở thành một trong 3 trụ cột kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay.
EU sẽ không thể cười nụ với việc Mỹ luật hóa trừng phạt Nga
Cũng nên biết rằng, trong số 17 nước nhận nguồn tài trợ trực tiếp từ khi Kế hoạch Marshall, hiện chỉ có Thụy Sĩ và Thổ Nhĩ Kỳ đứng ngoài EU. Điều đó cho thấy cốt lõi của EU là lợi ích Mỹ và đó cũng là lý do khiến EU trở thành “độc nhất vô nhị”, dù có nhiều liên minh đã ra đời, nhiều cộng đồng đã hình thành trên thế giới hiện nay.
Vậy thì “chia ngọt sẻ bùi” với đồng minh bảo trợ cũng là việc cần làm và nên làm, sao mà EU lại phản ứng dữ dội như vậy?
Theo giới phân tích, việc Mỹ luật hóa trừng phạt Nga gây thiệt hai về lợi ích chỉ làm cho EU thất vọng, còn khi EU giận dữ thì vấn đề không còn là lợi ích nữa.
Có thể thế rằng, sau khi lệnh trừng phạt Nga được luật hóa tại Mỹ thì việc xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách từ kinh tế – thương mại đến hợp tác – đầu tư của EU đã gần như rơi vào thế bị động hoàn toàn.
Khi tham gia liên minh cấm vận Nga với lệnh trừng phạt mà chính quyền Tổng thống Obama áp đặt, EU không mất thế chủ động của mình, bởi thời gian và cách thức áp đặt lệnh trừng phạt được linh hoạt trên cơ sở so sánh tương quan lợi – hại.
Tuy nhiên, khi lệnh trừng phạt được luật hóa tại Mỹ thì điều đó hoàn toàn do người Mỹ quyết định, trong khi lợi ích trong quan hệ Nga – Mỹ không tương đồng với lợi ích trong quan hệ Nga – EU.
Điều đó cho thấy, việc luật hóa trừng phạt Nga đã chuyển EU từ phụ thuộc – bị ràng buộc, bị chi phối bởi Mỹ – sang lệ thuộc – mất tự chủ trong chính hành động của mình.
Mỹ quá quyết liệt tước bỏ quyền lợi của EU
Trong khi tính chất của việc luật hóa trừng phạt Nga đưa EU vào chỗ mất tự chủ, song trong cách thức thực thi Washington cũng lại không xem trọng đồng minh. Người Mỹ đã quá quyết liệt trong việc tước bỏ quyền lợi của EU.
Chưa khi nào Washington là xem thường các đồng minh bên bờ đông Đại Tây Dương như lúc này, đặc biệt là việc luật hóa trừng phạt Nga. Ngay cả khi người Mỹ mang tiền cứu giúp Châu Âu trong Kế hoạch Marshall vĩ đại thì đồng minh cũng không bị Wahington xem thường như vậy./.
(Datviet)