Lập luận như Trung Quốc, Việt Nam có thể đòi lãnh thổ đến phía Nam Dương Tử

Trong đấu tranh với Trung Quốc để tránh bị mắc lừa, chúng ta phải tự vũ trang cho mình khả năng và hiểu biết về luật pháp, thông lệ quốc tế trước.

LTS: Trước thềm phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ngày 12/7, Trung Quốc vẫn ra sức tuyên truyền ào ạt về cái gọi là chủ quyền của họ trên Biển Đông với “bằng chứng lịch sử” và tiếp tục bác bỏ thẩm quyền, phán quyết của Tòa.

Tiến sĩ Trần Công Trục, chuyên gia về biên giới lãnh thổ và luật biển quốc tế gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích của ông về vấn đề này, xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết này.

Ngày 1/7 kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tập trung khá nhiều vào chính sách đối ngoại, những vấn đề liên quan đến Biển Đông trong bài diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm này. Ông nhắc lại, Trung Quốc không thỏa hiệp về “chủ quyền lãnh thổ, quyền và lợi ích trên biển”.

Trợ chiến cho ông, truyền thông nhà nước Trung Quốc ồ ạt đăng tải các bài phỏng vấn, những thông tin, những bằng chứng lịch sử để cố chứng minh cho cái gọi là “chủ quyền không tranh cãi” của Trung Quốc với các đảo ở Biển Đông, thậm chí là toàn bộ Biển Đông.

Lap luan nhu Trung Quoc, Viet Nam co the doi lanh tho den phia Nam Duong Tu - Anh 1

Tiến sĩ Trần Công Trục.

Đây là một mũi tên truyền thông nguy hiểm nhằm vào hai đích, một là tiếp tục đánh lạc hướng dư luận quốc tế về bản chất vụ kiện của Philippines và phán quyết của PCA hòng lôi kéo sự ủng hộ của dư luận. Hai là sẵn dịp này đẩy mạnh tuyên truyền cái gọi là “chủ quyền” của Trung Quốc đối với đường lưỡi bò, cũng như 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

Trước những thủ đoạn tuyên truyền này của Trung Quốc, chúng ta với tư cách là bên liên quan trực tiếp có chủ quyền với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị Trung Quốc xâm phạm, có vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hợp pháp bị Trung Quốc xâm hại cần phản ứng ra sao để tránh rơi vào bẫy Trung Quốc thiết nghĩ là điều hết sức quan trọng.

Trung Quốc đánh đồng các tranh chấp, chúng ta càng phải phân biệt rạch ròi các tranh chấp

Đến giờ này khi PCA sắp ra phán quyết, Trung Quốc vẫn tiếp tục thủ đoạn ông nói gà, bà nói vịt, đã trót phóng lao thì phải theo lao. Tuy nhiên Bắc Kinh đang vấp phải phản ứng quyết liệt từ chính dư luận các học giả, nhà nghiên cứu chân chính trong nước, cũng như dư luận khu vực và các nước liên quan.

Điển hình như việc Ngoại trưởng Indonesia mới đây tuyên bố dõng dạc, Indonesia không có bất kỳ cái gọi là “vùng chồng lấn” nào với Trung Quốc ở Biển Đông khu vực phía Bắc quần đảo Natuna. Mặt khác, Jakarta không thừa nhận đường lưỡi bò, cũng không thừa nhận cái gọi là “vùng đánh cá truyền thống” mà Trung Quốc đưa ra.

Không dừng lại ở lời nói, chính phủ Tổng thống Joko Widodo đã triển khai một loạt chính sách, hành động bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của họ, điều mà chúng ta đã làm trong khủng hoảng giàn khoan 981 năm 2014 do Trung Quốc gây ra và nhiều lần khác Trung Quốc xâm phạm.

Về mặt pháp lý, vụ kiện của Philippines và phán quyết của PCA sắp có ngày 12/7 tới đây nếu Tòa tuyên đường lưỡi bò Trung Quốc không có căn cứ pháp lý sẽ là một đòn bẩy quan trọng để các bên liên quan tiếp tục đấu tranh với Trung Quốc chống lại các hành vi leo thang, bành trướng, vi phạm luật pháp quốc tế và xâm phạm quyền lợi của các nước liên quan.

Trên Biển Đông có nhiều tranh chấp phức tạp, đan xen nhau, trong đó nổi bật hơn cả là tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tranh chấp ứng dụng, giải thích và vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982). Đường lưỡi bò Trung Quốc là một sự vi phạm trắng trợn UNCLOS 1982.

Còn với các tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ với các đảo, các thực thể ở Hoàng Sa, Trường Sa cần được giải quyết bằng biện pháp hòa bình thông qua hệ thống luật pháp và thực tiễn quốc tế về thụ đắc lãnh thổ mà chúng tôi xin nhắc lại dưới đây.

UNCLOS 1982 và phán quyết của PCA tới đây không giải quyết tranh chấp lãnh thổ / chủ quyền như Trung Quốc đang tuyên truyền. UNCLOS 1982 và DOC cũng không phải căn cứ để đàm phán giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông như cách hiểu của Nga hiện nay.

Căn cứ pháp lý giải quyết tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ ở Biển Đông

Trong lịch sử phát triển lâu dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có các phương thức thụ đắc lãnh thổ.

Từ thế kỷ XVI, tình trạng tranh chấp về khu vực ảnh hưởng giữa các nước mới phát triển và lớn mạnh như Hà Lan, Anh, Pháp… với các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trở nên quyết liệt.

Bởi vậy nên Giáo hoàng Alexandre VI đã ký Sắc lệnh ngày 04/5/1493 phân chia khu vực ảnh hưởng cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở phạm vi nằm ngoài châu Âu.

Trước thực trạng đó, các cường quốc hàng hải đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho việc thụ đắc lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện. Đó là nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu “, hay còn được gọi là nguyên tắc “quyền phát hiện “.

Nguyên tắc này dành quyền ưu tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho quốc gia nào đã phát hiện vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc “quyền phát hiện” chưa bao giờ tự nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ mới đó.

Bởi vì, người ta không thể xác định được thế nào là phát hiện? Giá trị pháp lý của việc phát hiện? Ai là người phát hiện trước? Lấy gì để ghi dấu hành vi phát hiện đó?…

Vì thế, việc phát hiện đã nhanh chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu tích trên vùng lãnh thổ mới phát hiện ra đó.

Mặc dù vậy, nguyên tắc “chiếm hữu danh nghĩa” không những không thể giải quyết được một cách cơ bản những tranh chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với các vùng “đất hứa”, đặc biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa đất liền hàng ngàn, hàng vạn hải lý.

Chẳng những thế, nguyên tắc này còn ngày càng dẫn đến những đối đầu quyết liệt hơn giữa các cường quốc vì người ta không thể lý giải được cụ thể cái “danh nghĩa” đã được lập ra bao giờ và tồn tại như thế nào.

Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885 của 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ và sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888, người ta đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thụ đắc mới. Đó là nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”.

Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin ký ngày 26/6/1885 đã xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau:

– “Phải có thông báo về việc chiếm hữu cho các quốc gia ký Định ước nói trên”;

– “Phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước đã thực hiện hành vi chiếm hữu trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến cho các quyền của nước chiếm hữu được tôn trọng… “.

Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh: “…mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh nghĩa chủ quyền… thì phải là thật sự, tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”.

Chính Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thực sự của Định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.

Nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế bao gồm:

1. Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành;

2. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (res nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto). Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp;

3. Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó;

4. Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

Lap luan nhu Trung Quoc, Viet Nam co the doi lanh tho den phia Nam Duong Tu - Anh 2

Một học giả Trung Quốc đang ra sức tuyên truyền cho các “bằng chứng lịch sử” về “chủ quyền với toàn bộ Biển Đông” từ thời Tần, Hán, trên đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV, bản tiếng Anh ngày 1/7.

Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này nên mặc dù Công ước Saint Germain ngày 10/8/1919 đã hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì lý do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và các cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo.

Chẳng hạn, Tòa Trọng tài Thường trực vào tháng 04/1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan hay phán quyết của Tòa án Quốc tế vì Công lý (ICJ) của Liên Hợp Quốc tháng 11/1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrchous…

Gần đây hơn, ICJ đã ra phán quyết Malaysia thắng trong vụ kiện với Indonesia vào tháng 12/2002 về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì Tòa nhận thấy rằng, Malaysia đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.

Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý nói trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do các bên tranh chấp nêu ra, chúng ta chắc chắn sẽ có được những nhận xét khách quan và khoa học về quyền “thụ đắc lãnh thổ ” đối với hai quần đảo này.

Cái bẫy nguy hiểm mang tên “bằng chứng lịch sử” Trung Quốc đang giăng ra, không cảnh giác chúng ta dễ mắc

Mỗi khi phía Trung Quốc tung ra các tài liệu lịch sử, bằng chứng lịch sử như thư tịch, bản đồ như cái gọi là “cuốn sách 600 tuổi về chủ quyền Trung Quốc với Hoàng Sa, Trường Sa” mà truyền thông vừa nêu trong thời gian qua, xu hướng chung của dư luận phản bác lại Trung Quốc mới chỉ dừng lại ở bản thân tài liệu đó như nội dung, tính xác thực…mà quên mất một điểm tối quan trọng.

Đó là trước hết phải xác định được bản chất tranh chấp, đối tượng tranh chấp và khung pháp lý, hoặc nói nôm na là hệ quy chiếu giải quyết vấn đề tranh chấp đó trước, sau đó mới đến bản thân các tài liệu.

Bản đồ, thư tịch về chủ quyền lãnh thổ có rất nhiều, nhưng nó chỉ có giá trị trong đấu tranh pháp lý khi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành cùng các quyết định hành chính thể hiện ý chí nhà nước trong việc xác lập, tuyên bố và thực thi chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phù hợp với luật pháp quốc tế.

Không phải bản đồ nào, thư tịch nào cũng có giá trị khẳng định chủ quyền của một nhà nước đối với vùng lãnh thổ. Nếu chúng ta không xác định trước một “hệ quy chiếu” pháp lý chuẩn mực về tranh chấp lãnh thổ, mà lập tức nhảy vào phản bác, tranh cãi với Trung Quốc trên các “bằng chứng lịch sử” cụ thể họ đưa ra, chúng ta sẽ mắc bẫy.

Bởi lẽ việc đầu tiên là phải sàng lọc trong số những “bằng chứng” mà Trung Quốc đưa ra, cái nào có giá trị pháp lý để chứng minh cho yêu sách của họ, cái nào phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế về thụ đắc lãnh thổ. Việc thứ hai mới là xem xét nội dung của các bằng chứng lịch sử là thư tịch, bản đồ.

Chính trong quá trình đàm phán hoạch định biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc, chúng ta đã tiến hành theo nguyên tắc, trình tự này nên tránh được không ít rắc rối do “mê hồn trận” bằng chứng lịch sử mà Trung Quốc giăng ra.

Ngoài ra còn chưa kể đến những tài liệu lịch sử, ngoại giao không có giá trị pháp lý vẫn đang được Trung Quốc sử dụng để tuyên truyền gây bất lợi cho ta, như tài liệu Trung Quốc nộp lên Liên Hợp Quốc năm 2009.

Nếu cứ lập luận dựa vào “bằng chứng lịch sử” mà thiếu một hệ quy chiếu pháp lý quốc tế như cách Trung Quốc đang làm hiện nay, Việt Nam chúng ta có thể căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư cũng có thể đòi chủ quyền lãnh thổ đến tận phía Nam sông Dương Tử! Như vậy thế giới này loạn mất.

Tóm lại, trước các thủ đoạn tuyên truyền và tài liệu, bằng chứng mà Trung Quốc đưa ra về Biển Đông, chúng ta cần tiếp cận một cách thận trọng, nghiên cứu và phản biện trên tinh thần luật pháp quốc tế mà theo tôi gồm có 3 bước:

Một là xác định vấn đề và khoanh vùng phạm vi tranh chấp, đối tượng tranh chấp: Nếu là tài liệu về đường lưỡi bò, hoặc đòi “chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông” thì việc đầu tiên là phải xác định, đây là vấn đề giải thích, áp dụng UNCLOS 1983 về các vùng biển chứ không phải tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ như đối với các thực thể ở Hoàng Sa hay Trường Sa.

Hai là xác định hệ quy chiếu pháp lý, căn cứ pháp lý quốc tế để xác định tài liệu đó, “bằng chứng lịch sử” đó có giá trị đàm phán hoặc tranh tụng trước tòa hay không.

Thông thường những thư tịch không mang tính nhà nước, tác phẩm văn học, gia phả, ghi chép cá nhân, sử sách thuần túy chỉ mang tính chất tham khảo nghiên cứu. Những thư tịch mang tính chất văn bản nhà nước thể hiện ý chí nhà nước trong việc xác lập, tuyên bố và thực thi chủ quyền mới có giá trị đấu tranh.

Giống như khi đàm phán phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì Công ước Pháp – Thanh 1887 và Công ước Pháp – Thanh 1895 làm căn cứ hoạch định đàm phán, thì mọi bằng chứng lịch sử chỉ có giá trị khi nó phù hợp với nội dung Công ước này. Ngoài ra các tài liệu khác chỉ để tham khảo.

Bước thứ 3 mới bắt đầu đi vào xem xét các bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý theo nguyên tắc pháp lý các bên đã thỏa thuận, theo luật pháp và thông lệ quốc tế để tìm hiểu chúng có giá trị đến đâu.

Như vậy, trong đấu tranh với Trung Quốc để tránh bị mắc lừa, chúng ta phải tự vũ trang cho mình khả năng và hiểu biết về luật pháp, thông lệ quốc tế trước, sau đó mới triển khai các vấn đề tiếp theo về tài liệu, bằng chứng, kẻo bỏ cả đống tiền tìm mua bản đồ, tài liệu rồi cuối cùng bị chính bản đồ, tài liệu ấy làm hại mình.

Ts Trần Công Trục

Related Posts